Tai Mũi Họng

Xin chào bác sỹ ! Con trai tôi cắt a mi đan cách đây 13 năm. Từ ngày cắt đến giờ từ nửa lưỡi vào trong họng bị đỏ nhớt , loét , nhìn rất sợ, cháu đã khám và điều trị thuốc mà vết loét không khỏi. Xin hỏi bác sỹ cháu khám và chữa ở đâu để mặt lưỡi không bị loét nữa? Cảm ơn bác sỹ.

Bìu Thị Chiu

(2016/03/18 04:33)

Chào bạn,
Loét lưỡi có rất nhiều dạng, tôi cung cấp cho bạn một số thông tin để bạn so sánh với trường hợp của mình
Do chấn thương\n-Chấn thương là một trong những nguyên nhân gây loét tái phát thường gặp nhất, thường do: cơ học, hóa học, kích thích về nhiệt độ gây ra loét đau, lành trong vòng vài tuần không để lại sẹo. Loét sẽ bị tái phát nếu kích thích nếu vẫn tiếp tục.\n- Răng giả, các thủ thuật chỉnh răng bằng kim loại, răng quá bén hoặc cắn vào niêm mạc miệng, cũng gây ra loét. Răng giả gây ra loét do áp lực, biểu hiện là vết loét nhỏ hơn 1cm trên phần chóp ổ răng. Loại này thường xảy ra ở vùng niêm mạc lỏng lẻo như má, môi dưới , hoặc lưỡi. Nghiến răng làm lở dọc theo đường nghiến tương ứng với răng hàm trên và dưới.\n- Các chất hóa học như axit hoặc bazơ, những thuốc kháng viêm như aspirin dạng ngậm cũng có thể gây loét. Có nhiều thuốc bán không theo đơn cũng gây tỗn thương niêm mạc khi sử dụng kéo dài. Trẻ em hoặc người bị rối loạn tâm thần xỉa răng bằng móng tay hoặc dụng cụ cứng khác cũng gây loét.\nViêm loét miệng-lưỡi do aphthe tái phát (RECURRENT APHTHOUS STOMATITIS-RAS)\nXảy ra cho khỏang 20% dân số, thường gặp ở phái nữ và ở trẻ em. Đa số các trường hợp bệnh giới hạn ở niêm mạc miệng-lưỡi và thường do nhiều yếu tố kết hợp: chấn thương, hút thuốc, stress, ảnh hưởng nội tiết (hành kinh, có thai, mãn kinh), di truyền, dị ứng thực phẩm, nhiễm trùng, nhiễm nấm, dị ứng thuốc, thiếu vitamine C, PP, B6, B12, thiếu sắt, bệnh lý tự miễn. Người ta đã quan sát hàng trăm gia đình và nhận thấy bệnh này dường như cũng có yếu tố di truyền. Cha mẹ bị loét miệng thì trẻ nhỏ và con gái trong nhà cũng dễ bị bệnh.\nRASchia làm 2 loại dựa vào hình thái hoặc lâm sàng\n1. Theo hình thái\n- Loét dạng aphthe nhỏ (Canker sores - Minor aphthous ulcerations) thường gặp nhất, chiếm khoảng 80 % , điển hình là có một vài đến nhiều vết loét <1 cm, nông, nằm rời rạc hoặc thành đám, lành trong khỏang 7 – 14 ngày không để lại sẹo.\n- Lóet dạng aphthe lớn(Cold sores - Major aphthous ulcerations): còn gọi là bệnh Sutton hoặc hoại tử niêm mạc miệng tái phát có viêm hạch ngoại biên, chiếm khoảng 10 %.Vết loét có kích thước lớn hơn, thường >1cm, có một hoặc nhiều, lành chậm hơn hoặc dai dẳng nhiều tuần, sau cùng để lại sẹo do hoại tử lan rộng.\nLoại loét dạng herpes để chỉ tổn thương kết thành chùm, nhưng không liên quan đến virus herpes, thường số lượng nhiều từ 10 – 100 , nhiều vết loét nhỏ nhanh chóng kết hợp lại thành mảng lớn, lành trong khỏang 7 – 30 ngày.\nRAS có chung đặc điểm là vết loét có màu đỏ ở xung quanh, trung tâm có mảng mục màu vàng, có thể có giai đoạn báo trước kéo dài khoảng 24 giờ, kế đến là đau nhiều 2 - 3 ngày, dần dần giảm đau khi bắt đầu lành\n2. Theo lâm sàng\n- Lóet đơn giản: số lượng từ vài đến nhiều vết loét, lành trong vòng 1 – 2 tuần, hay tái phát.\n- Loét phức tạp: biểu hiện lâm sàng nặng, kích thước lớn, số lượng nhiều, loét sâu, , tồn tại dai dẳng, chậm lành, đau nhiều. Loét mới tạo thành khi loét cũ vừa lành, bệnh nhân ít khi thấy khỏi bệnh.Đôi khi RAS là triệu chứng của bệnh hệ thống như:Hội chúng Behcet; sốt, loét miệng-sinh dục dạng aphthe, viêm họng, viêm hạch.\nRAS cũng gặp trong các bệnh viêm ruột mãn tính : bệnh Crohn,viêm loét đại tràng, bệnh ruột nhạy cảm Gluten, thiếu máu thiếu sắt, folate, vitamin B12, rối loạn kinh nguyệt, thiếu máu ác tính. Mặc dù vậy, chỉ 40% bệnh nhân bị aphthe vô căn và có nhiều yếu tố liên quan. Người ta thừa nhận là do phản ứng chéo giữa vi sinh vật và lớp biểu mô ở miệng, hoạt động như là một kháng nguyên kích thích tạo kháng thể và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, chúng hoạt đông riêng lẻ hoặc kết hợp nhau gây nên loét .\nC. Viêm miệng do Herpes simplex virus\nNhiễm Herpes ở miệng không phổ biến. Có hai dạng nhiễm Herpes có ảnh hưởng khoang miệng. Nhiễm Herpes nguyên phát còn gọi là viêm miệng, lợi do Herpes cấp tính, xảy ra sau nhiễm virus Herpes, biểu hiện tòan thân nhiễm trùng, hầu hết ở trẻ em bởi vì nhiễm nguyên phát xảy ra ở trước thời kỳ trưởng thành.\nDạng phổ biến là nhiễm Herpes ở môi, hay còn gọi là đau do lạnh hoặc sốt mụn nước, điển hình xảy ra ở môi, màu đỏ sậm và không thuộc phổ của loét miệng. Dạng ít gặp là dạng nhiễm Herpes miệng, nhiều khi nhiễm Herpes miệng nhưng không triệu chứng và không nhận thức được có nhiễm bệnh. \nVề lâm sàng, chẩn đoán phân biệt chính của RAS là nhiễm virus Herpes simplex. \nĐặc điểm chính để phân biệt là vị trí tổn thương.\n- RAS thường xảy ra trên vùng niêm mạc lỏng lẻo, không bị sừng hóa như: niêm mạc má, môi, sàn miệng,và mặt dưới lưỡi.\n- Loét do Herpes xảy ra ở niêm mạc bị sừng hóa, có liên quan mật thiết với quá trình nhai: khẩu cái cứng, lợi, mặt lưng lưỡi, tùy theo vùng chấn thương.
ĐIỀU TRỊ \nChủ yếu là giảm đau vì là triệu chứng khó chịu nhất. Ngoài ra, hầu như không cần điều trị vì đa số trường hợp bệnh sẽ tự động khỏi sau 7 – 14 ngày.\nNhững cách tự điều trị và chăm sóc khác khi bị loét miệng:\n-Ngưng dung rượu bia, thuốc lá. Tránh thức ăn có nhiều gia vị như cay, mặn , chua.\n-Nếu đau nhiều, có thể uống nước bằng ống hút. Không uống nước nóng.\n-Vệ sinh răng miệng kỹ, dùng bàn chải răng thật mềm, tránh chấn thương miệng lưỡi.\nNếu có những triệu chứng sau xuất hiện thì tốt nhất nên đi khám bệnh vì có thể chúng là dấu hiệu của những bệnh khác nặng hơn:\n-Vết loét phát triển nhiều, lớn hơn một cách bất thường.\n-Vết loét kéo dài trên 3 tuần.\n-Không thể giảm đau bằng mọi cách.\n-Sốt cao hoặc sốt vừa nhưng kéo dài.\nBác sĩ chuyên khoa có thể chẩn đoán xác định và sử dụng thêm các phương pháp điều trị sau cho bệnh nhân tùy trường hợp bệnh lý cụ thể:\n- Hỗ trợ: Bù dịch, hạ sốt: acetaminophen, súc miệng với hydrogen peroxide 1%\n- Tại chỗ: Giảm đau tại chỗ với Lidocain vicous 2%, Súc miệng 2,5 ml lidocain pha loãng trong 10 ml nước; Benzocaine( Anbesol )\n-Thuốc kháng viêm, sát khuẩn răng miệng: Orabase, Zilactin, Chlorhexidine (Cyteal, Eludril), dung dịch Cetylpyridine chloride. Kháng viêm; Amlexanox\n-Thuốc điều trị toàn thân:\nCorticosteroids\nKháng virus: Acyclovir, Famciclovir, Valcyclovir. Kháng sinh: Penicillins, macrolides Metronidazole,.. Kháng neutrophil: Colchicine, Dapsone ( RAS ), Ức chế miễn dịch: Azathioprine, Cyclosporine, Thalidomide.\nThuốc khác: Pentoxifylline

Tìm kiếm câu hỏi khác

Các câu hỏi liên quan